Ngày 16 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Phan Văn Khải đề cử ông làm người kế nhiệm mình trước phiên khai mạc kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI.
Địa chỉ học trực tiếp tại Hà Nội
Melde dich an, um fortzufahren.
Tòa nhà số 52 đường Út Tịch, Phường 4, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0309532909 do Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp lần đầu vào ngày 06/01/2010.
Trò chuyện với PV Báo CAND trước sự kiện kỷ niệm 200 năm Ngày sinh Nguyễn Đình Chiểu (1/7/1822-1/7/2022), Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Bến Tre Cao Văn Dũng cho biết, tại kỳ họp lần thứ 41 (diễn ra vào cuối tháng 11/2021 tại Paris, Pháp), khi thông qua hồ sơ khoa học Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu trong danh sách các danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử có tầm vóc quốc tế niên khóa 2022 – 2023, Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã khẳng định: “Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam; tấm gương vượt qua nghịch cảnh và theo đuổi lý tưởng học tập suốt đời”.
Ngoài sáng tác thơ văn, Nguyễn Đình Chiểu còn là một nhà giáo được người đời quý mến về tài năng, đức độ; trọn đời dốc lòng dạy dỗ, truyền thụ cho môn sinh đạo làm người, đạo lý truyền thống của dân tộc. Điều đáng khâm phục nữa là khi bị mù, Nguyễn Đình Chiểu mới học làm thuốc và trở thành một thầy thuốc giỏi, một lương y tinh thông về y lý. Trên thế giới hiếm có danh nhân nào đạt trên cả 3 lĩnh vực đồ sộ như Cụ Đồ: Thơ văn, thầy giáo, thầy thuốc.
Sau liên tiếp nhiều biến cố của cuộc đời, Nguyễn Đình Chiểu mở trường dạy học và bốc thuốc. Thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu được gọi là Đồ Chiểu từ đó. Nguyễn Đình Chiểu từng ở ba nơi, đó là quê mẹ huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay là phường Cầu Kho, quận 1, TP Hồ Chí Minh); quê vợ huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định (nay là tỉnh Long An) và huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Vì thế, trường học của thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu cũng thay đổi ba lần. Học trò của ông ở xung quanh và đến từ các vùng quê xa. Cũng như nhiều nhà nho thời đó, Cụ Đồ lấy nhà mình làm trường học.
Bà Mai Kim Ba (tức Nữ sĩ Mai Huỳnh Hoa, 1910 – 1987; con của học giả Mai Bạch Ngọc, vợ thứ của chí sĩ Phan Văn Hùm), là cháu cố (chắt ngoại) của Nguyễn Đình Chiểu nhớ lời kể của bà ngoại mình (Nữ sĩ Nguyễn Thị Xuân Khuê, tức Sương Nguyệt Anh – con gái của Cụ Đồ) từng viết năm 1935 trên báo Tân Văn: “Học trò ước có hai trăm người, ngồi ra hai hàng tả hữu nghe giảng. Tiên sinh mắt đã mù, không còn xem sách được, nhưng mỗi bữa hỏi học trò tới đoạn nào, thì tiên sinh giảng đoạn ấy, như ngó thấy sách, vì tiên sinh thuộc lòng các sách”.
Cách dạy của các nhà nho thời đó là truyền khẩu, giảng bài từ các bộ sách Tứ thư, Ngũ kinh, sách kinh điển của Nho giáo dưới thời nhà Nguyễn (1802 - 1945). Nội dung các sách này đã thấm vào Nguyễn Đình Chiểu khi ông được một thầy đồ trong làng giảng dạy ngay từ nhỏ. Đến năm 11 tuổi được cha gửi cho một người bạn là thái phó của triều đình Huế để Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục ăn học.
Ngoài ra, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã học vỡ lòng trong sách “Minh tâm bửu giám” (Gương báu soi sáng cõi lòng). Và sau khi tiếp thu từ người thầy thuộc lò đào tạo Hòa Hưng của Võ Trường Toản (Người thầy của Nguyễn Đình Chiểu vốn là học trò của Nghè Chiêu, mà Nghè Chiêu lại là học trò của cụ Võ Trường Toản) về “dưỡng khí”, “tập nghĩa” nhất là cách giáo dục xuất phát từ tâm tính tốt của người Gia Định “Trung dũng, khí tiết, trọng nghĩa, khinh tài”… Nguyễn Đình Chiểu dốc lòng dạy dỗ, truyền thụ cho học trò đạo làm người, đạo lý truyền thống của dân tộc…
Nhiều thế hệ môn sinh tiếp thu sự giáo dục của thầy Đồ Chiểu trở thành những người nổi tiếng, đặc biệt trong đó có 2 người con của Cụ đã có những đóng góp sâu sắc cho sự đổi mới của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Người đầu tiên là Nguyễn Thị Ngọc Khuê (tức Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, 1864 - 1922), nhà thơ, nữ chủ bút (Tổng biên tập) đầu tiên của Việt Nam - báo Nữ Giới Chung (Tiếng chuông nữ giới) là tờ báo đầu tiên của phụ nữ Việt Nam, xuất bản ở Sài Gòn ngày 1/2/1918. Tháng 7/1918, tờ Nữ giới chung bị đóng cửa. Giống như người cha, Sương Nguyệt Anh bị bệnh mắt, dần dần mù hẳn, phải dò dẫm bốc thuốc, dạy học, sáng tác. Hiện còn lưu truyền một số bài thơ của bà, như: Tức sự, Cảm tác khi lính Việt đi Âu chiến, Thưởng bạch mai, Vịnh ni cô, Đoan ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Vua Thành Thái vào Nam, vè thầy Hỷ, vè đánh đề…
Và nhân vật thứ hai là Nguyễn Đình Chiêm (1869 - 1935) tự là Trọng Vĩnh, hiệu Sơn Đầu (người dân Ba Tri từng quen gọi là Bảy Chiêm). Ông hành nghề đông y; ngoài ra, còn sáng tác, dịch thơ, là tác giả hai vở tuồng hát bộ Nam Tống tinh trung và Phấn Trang lầu nổi tiếng Nam bộ.
Nhiều người dân vùng Ba Tri, Bến Tre còn nhớ ông nội, ông thân sinh của mình kể lại trước đây từng là học trò của Nguyễn Đình Chiểu.
Ngoài ra, Nguyễn Đình Chiểu còn có hai học trò ưu tú hoạt động tích cực trong phong trào Phật giáo yêu nước là Hòa thượng Lê Khánh Hòa (1877 - 1947), người có công lớn trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ những năm 1920 - 1945 và Hòa thượng Thích Khánh Thông (1871 - 1953), cũng là người có uy tín lớn trong giới tăng, ni, Phật tử ở Bến Tre những thập niên nửa đầu thế kỷ XX.
“Với người mắt sáng, dạy học đã khó nhưng người mắt mù thì càng khó khăn vạn lần hơn. Thế nhưng bằng tất cả ý chí, bằng tất cả thiện cảm đối với người đi học và quan trọng hơn là bằng tất cả kinh nghiệm qua quá trình tiếp xúc đó đây, Nguyễn Đình Chiểu sớm trở thành một nhà giáo được người đời ngưỡng mộ”, lãnh đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Bến Tre cho biết.
Ngoài việc dạy học, sáng tác thơ văn, Nguyễn Đình Chiểu còn nghiên cứu thêm nghề làm thuốc và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Nếu nói đến những danh y xuyên suốt lịch sử của Việt Nam từ xưa đến nay không chỉ nổi danh bởi tài năng y học, chữa bệnh cứu người mà còn được biết đến như những nhà văn, nhà thơ, chiến sĩ cách mạng, luôn đau đáu vì vận nước, vì nhân dân thì Nguyễn Đình Chiểu xếp ở vị trí thứ ba chỉ sau Tuệ Tĩnh (người đã đặt nền móng cho nền y học cổ truyền Việt Nam với tư tưởng: “Nam dược trị Nam nhân” - thuốc Nam chữa bệnh cho người nước Nam. Ông được xem là bậc thầy của thầy thuốc Việt, ông tổ của ngành Y nước nhà) và Hải Thượng Lãn Ông (tức Lê Hữu Trác, người vừa chữa bệnh, vừa dạy học, vừa biên soạn sách y khoa. Toàn bộ sách Hải Thượng để lại mà ngày nay, chúng ta được thừa hưởng như một tài sản vô giá của nền y học cổ truyền Việt Nam gọi là “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh”).
Và trong 300 năm trở lại đây, Nguyễn Đình Chiểu là người thứ nhất đạt được những thành tựu trên lĩnh vực y thuật và y đạo.
Nguyễn Đình Chiểu một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu sâu sắc y lý phương Đông và y lý Việt Nam, cả về y thuật và y đức mà y đức của Nguyễn Đình Chiểu chính là đạo cứu người lồng trong nghĩa vụ cứu dân, cứu nước. Bằng vốn kiến thức đã có từ trước và sau khi được danh y truyền dạy nghề làm thuốc trong thời gian điều trị bệnh ở Quảng Nam (trên đường từ Huế trở vào Gia Định để chịu tang mẹ), Nguyễn Đình Chiểu đã nghiên cứu học thêm, trở thành lương y chữa bệnh cho dân và viết sách thuốc truyền tâm nguyện đến mọi người. Ngư Tiều y thuật vấn đáp khái quát nội dung và nói lên quan điểm y học của tác giả, biện luận trên cơ sở âm dương - những điều thiết yếu nhất về phương pháp và đường hướng trị bệnh, nói lên một đường hướng y học chân chính, cả về đạo đức và chuyên môn. Nguyễn Đình Chiểu đã nghiên cứu nghề thuốc rồi làm lương y để chữa bệnh cho dân và viết sách thuốc truyền tâm nguyện đến mọi người. Ông đã dốc lòng giới thiệu nghề thuốc của mình và trình bày những cương mục về lí luận Đông y có kèm theo giải thích một số thuật ngữ thiết yếu liên quan đến ngành y. Nhất là vấn đề về y thuật gồm có các phần: Mạch, chế dược, vận khí, thương hàn, sản phụ, nhi khoa... Rồi đến ngũ tạng trong cơ thể con người bao gồm tâm, can, tỳ, phế, thận, là những tạng khí có công năng tàng trữ và gạn lọc, chế tạo ra tinh khí. Một tạng bị bệnh sẽ ảnh hưởng đến sự vận hành chung.
Ông cũng chỉ ra những bài thuốc cụ thể: cây cỏ đều có chất độc lành khác nhau, chưa rõ tính chớ nên dùng… Có những nguyên lý cơ bản của Đông y đã được Nguyễn Đình Chiểu trình bày trên cơ sở âm dương, thủy hỏa, khí huyết. Ông đã trình bày một cách cụ thể về cách chữa bệnh vì bệnh có “hư hư thực thực”, biến đổi nhiều, nhiều chứng, nhiều phương. “Chữa bản” là chữa thẳng vào bệnh. “Nên bổ” nghĩa là lối chữa bệnh chủ yếu về dinh dưỡng, dùng thuốc để phục hồi sức khỏe. “Nên trước nên sau” là bệnh nào gấp hơn thì chữa trước nhưng phải tùy nghi mà dùng. Chỉ cần chẩn trị sai lệch một chút thì sẽ an nguy đến tính mạng.
Với 66 tuổi đời, gần 40 năm chữa bệnh cứu người, đối với một thầy thuốc bình thường điều ấy đã là một đóng góp, nhưng với một thầy thuốc mù lòa như Nguyễn Đình Chiểu, càng đáng ghi nhận.
Bên cạnh về chuyên môn, trong quá trình hành nghề đây đó của mình, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã nhận thấy một số người không nắm rõ về y thuật, chỉ am hiểu một vài phương thuốc lăng nhăng cũng tự cho mình là thầy thuốc, làm nghề chữa bệnh. Vì thế, Ngư Tiều y thuật vấn đáp ra đời (gồm 3.642 câu lục bát và 21 bài thơ), ngoài tác dụng động viên lòng yêu nước, chí căm thù nhân dân đối với quân thù, đều cần nhất là nêu ra những vấn đề nhằm chấn hưng y học cổ truyền, xây dựng một nghề y chân chính.
Tác phẩm thể hiện tư tưởng y đức học của Nguyễn Đình Chiểu là toàn diện, cao cả; ông khuyên người thầy thuốc cần trau dồi cả tài năng và đức độ trong cuộc đời hành nghề của mình. Nguyễn Đình Chiểu đề cao tinh thần, trách nhiệm của người thầy thuốc đối với tính mạng bệnh nhân, thương yêu người bệnh: “Thấy người đau giống mình đau/ Phương nào cứu đặng mau mau trị lành”. Và răn ngừa việc lợi dụng hay lừa dối người bệnh để lấy tiền một cách vô lương tâm: “Vốn không theo thói tham nhăng/ Nhân khi bệnh ngặt đòi ăn của nhiều”. Đặc biệt, Nguyễn Đình Chiểu dốc lòng cứu chữa cho những người nghèo khổ, chu cấp thuốc men, tận tình giúp đỡ họ mà không phân biệt đối xử: “Đứa ăn mày cũng trời sinh/ Bệnh còn cứu đặng thuốc dành cho không”.
Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp đã cho hậu thế chúng ta học tập ở Cụ Đồ tinh thần yêu nước chân thành, ý chí đấu tranh bất khuất, đạo đức liêm chính, khắc khổ, nhẫn nại, cần cù lao động và kiên trì trong sự nghiệp của mình, với mục đích phục vụ lợi ích lâu dài cho Tổ quốc.
Với y thuật và y đạo để vừa cứu người, vừa cứu dân, cứu nước, Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là một danh y, danh sư - Người thầy thuốc mẫu mực trong lòng nhân dân.
Nguyễn Đình Chiểu không những chữa bệnh về thể xác mà còn chữa bệnh về tinh thần. Theo Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Bến Tre, chỉ riêng tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp đủ thấy biệt tài về y học của Nguyễn Đình Chiểu, cụ đã nói lên các chứng bệnh với bệnh lý một cách sâu sắc, đồng thời cũng hàm chứa một tinh thần yêu nước, thương dân. Giáo sư Lê Trí Viễn từng viết trong đề tựa quyển Ngư tiều y thuật vấn đáp lần xuất bản năm 1982 rằng: “Y thuật ấy là kết tinh nghề thuốc trong hằng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước ấy có chiều sâu cá nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy ngàn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một con đường phù hợp cho những con người yêu nước bình thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết không phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước...”.
“Cả nước đang nỗ lực chấn hưng ngành giáo dục; nhiều chủ trương, biện pháp, phong trào… được triển khai sâu rộng ở các cấp học. Trong đó, vấn đề “dạy chữ kết hợp dạy người” chính là sự kế thừa những tinh hoa giáo dục của các bậc tiền nhân mà Nguyễn Đình Chiểu là một người thầy tiêu biểu với triết lý “văn dĩ tải đạo”, sửa đời, dạy người”, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Bến Tre Cao Văn Dũng chia sẻ.
(Thanhuytphcm.vn)- Đồng chí Phạm Văn Chiêu sinh tại ấp Long Hòa, xã Long Thạnh Mỹ, huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nay là thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh), trong một gia đình nông dân, ngay từ khi còn nhỏ tuổi đã rất ham học. Bằng sự thông minh và nỗ lực vượt bậc, đồng chí Phạm Văn Chiêu tốt nghiệp thủ khoa Trường Sư phạm Sài Gòn khi 19 tuổi. Sau đó, Đồng chí dạy học ở Gò Vấp, Hanh Thông Tây từ năm 1936. Năm 1942, Đồng chí được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường Tổng Hóc Môn. Suốt thời gian làm nghề dạy học, Thầy Bảy Chiêu đã mang hết tâm lực đào tạo, bồi dưỡng cho nhiều lớp học trò tư tưởng tiến bộ, tình yêu quê hương, đất nước, chí căm thù giặc. Đồng chí sáng lập Hội Ái hữu Giáo viên - Học sinh (Gò Vấp), Nhóm Minh Đức Văn tập (Hóc Môn) không chỉ có tính chất hội nghề nghiệp mà còn là hình thức tập hợp lực lượng quần chúng yêu nước. Rất nhiều người là học trò, đồng nghiệp của Đồng chí sau này trở thành những chiến sĩ cách mạng, nhiều người trở thành lãnh đạo chủ chốt của tỉnh Gia Định trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước, có người sau này là tướng lĩnh quân đội, Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động.
Năm 1942, vì hoạt động yêu nước, đồng chí Phạm Văn Chiêu bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà tù Catinat, Khám Lớn Sài Gòn rồi đày đi Biên Hòa. Trong nhà tù, đồng chí Phạm Văn Chiêu được tiếp xúc với nhiều chiến sĩ cách mạng, nhiều đảng viên cộng sản và được giác ngộ cách mạng. Sau khi ra tù, tháng 4 năm 1944, đồng chí Phạm Văn Chiêu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sinh hoạt tại Chi bộ Hanh Thông Tây. Đồng chí cùng Chi bộ Hanh Thông Tây đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh tuyên truyền tư tưởng cách mạng, thu hút đông đảo quần chúng tham gia.
Tháng 8 năm 1945, khi thời cơ đến, dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là Tỉnh ủy Gia Định, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh Gia Định đã thành công rực rỡ. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, đồng chí Phạm Văn Chiêu trực tiếp chỉ huy đánh chiếm dinh Tỉnh trưởng Gia Định, buộc tỉnh trưởng đầu hàng. Đồng chí Phạm Văn Chiêu được phân công tiếp nhận sự đầu hàng, sau đó Đồng chí được cử làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Định, điều hành chính quyền cách mạng đầu tiên của tỉnh.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp nổ súng hòng đánh chiếm Sài Gòn. Sau khi chiếm được Trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ, chúng đưa quân lấn dần ra khu vực Thị Nghè, Cầu Bông, Cầu Kiệu. Ngày 12 tháng 10 năm 1945, quân Pháp đánh vào Trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh, đồng chí Phạm Văn Chiêu tổ chức cho lực lượng ta chống trả quyết liệt, đến hơn 10 giờ tối mới rút về Gò Vấp.
Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với nhãn quan cách mạng và tầm nhìn bao quát, đồng chí Phạm Văn Chiêu đề xuất và được Tỉnh ủy và Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Gia Định quyết định thành lập Chiến khu An Phú Đông, gồm hai xã An Phú Đông và Thạnh Lộc. Chiến khu này cách trung tâm Sài Gòn chỉ 5km, trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chiến khu An Phú Đông đã lập những chiến công hào hùng, trở thành một địa chỉ đỏ, một biểu tượng cho tinh thần quật khởi của nhân dân Sài Gòn - Gia Định.
Tháng 9 năm 1946, tại xã Tân Thới Hiệp, các đồng chí có trách nhiệm trong hai Tỉnh ủy Tiền Phong và Giải phóng đã họp và nhất trí thành lập một Tỉnh ủy thống nhất. Đồng chí Phạm Văn Chiêu được bầu vào Tỉnh ủy và được cử làm Bí thư Tỉnh ủy vào tháng 10 năm 1947. Tháng 6 năm 1951, Nam Bộ tách thành hai phân liên khu miền Đông và miền Tây. Tỉnh Gia Định Ninh cũng được tổ chức lại, Tỉnh ủy mới của Gia Định Ninh được chỉ định gồm 13 đồng chí, do đồng chí Phạm Văn Chiêu làm Bí thư.
Với cương vị là Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính (1945 - 1951) và Bí thư Tỉnh ủy Gia Định, Gia Định Ninh (1947 - 1951), đồng chí Phạm Văn Chiêu đã cùng tập thể Đảng bộ và chính quyền của tỉnh tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gia Định với nhiều thành tựu to lớn. Những chiến công đã đi vào lịch sử của tỉnh Gia Định có vai trò chỉ huy rất quan trọng của đồng chí Phạm Văn Chiêu. Đồng chí đã quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền, giáo dục và đoàn kết nhân dân kiên quyết đứng lên kháng chiến ở một địa bàn ngay sát Sài Gòn; tổ chức xây dựng chính quyền kháng chiến từ tỉnh tới xã; xây dựng hệ thống căn cứ kháng chiến An Phú Đông, Bình Lý - Tân Mỹ, Bưng sáu xã, địa đạo Củ Chi; xây dựng và phát triển vùng giải phóng ở tỉnh Gia Định; tổ chức in và phát hành công trái kháng chiến; phát triển phong trào bình dân học vụ… Ngày 25 tháng 4 năm 1949, tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký thưởng Huân chương Độc lập cho đồng chí Phạm Văn Chiêu với thành tích “Đã có công giữ vững và phát triển cơ sở kháng chiến tại một địa phương liền sát địch - Có thành tích vẻ vang” và tặng Đồng chí một vật kỷ niệm của Người.
Năm 1952, đồng chí Phạm Văn Chiêu nhận nhiệm vụ Ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Phân liên khu miền Đông Nam Bộ, Bí thư Đảng đoàn kiêm Phó ban Mặt trận Phân liên khu miền Đông. Trong cương vị mới, Đồng chí đã cùng các đồng chí trong tổ chức vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng vào điều kiện cụ thể của Nam Bộ, đề xuất nhiều chủ trương quan trọng trong tổ chức tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện dân chủ ở nông thôn, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất…, góp phần tích cực đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, mở rộng vùng giải phóng.
Sau Hiệp định Genève, tháng 10 năm 1954, đồng chí Phạm Văn Chiêu tập kết ra Bắc. Theo sự phân công của tổ chức, Đồng chí được cử làm Trưởng đoàn kiêm Bí thư Đoàn ủy Đoàn tập kết số 9 miền Đông Nam Bộ. Tháng 01 năm 1955, Đồng chí được Trung ương điều về làm Trưởng phòng Tự do - Dân chính thuộc Vụ Dân chính, Bộ Nội vụ. Ngày 14 tháng 6 năm 1955, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 550/TTg về việc thành lập Ban Quan hệ Bắc Nam (về mặt Đảng là Ban miền Nam) trực thuộc Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm thống nhất cuộc vận động lập lại quan hệ Bắc - Nam, phục vụ cho công tác nghiên cứu, chỉ đạo kịp thời cách mạng miền Nam, do đồng chí Lê Đức Thọ, sau đó là đồng chí Phạm Văn Chiêu làm Trưởng ban. Trong thời gian làm việc tại Ban Quan hệ Bắc - Nam, Đồng chí đã tham gia vào nhiệm vụ nghiên cứu, giúp Trung ương theo dõi và chỉ đạo tình hình miền Nam, chỉ đạo phong trào đấu tranh đòi chính quyền miền Nam thi hành Hiệp định Genève, thực hiện công tác chính sách đối với cán bộ và gia đình các đồng chí, đồng bào tập kết.
Tháng 9 năm 1956, đồng chí Phạm Văn Chiêu được điều về công tác ở Bộ Ngoại giao, giữ chức Vụ phó Vụ Á - Phi kiêm Bí thư Chi bộ, Đảng ủy viên Đảng bộ Bộ Ngoại giao. Đồng chí đã có những đóng góp tích cực cho hoạt động ngoại giao của Đảng, Nhà nước với các nước Á - Phi. Từ tháng 10 năm 1958 đến tháng 6 năm 1960, Đồng chí là Vụ phó phụ trách Phòng Tổ chức cán bộ, kiêm Bí thư Đảng ủy Bộ Ngoại giao. Tháng 6 năm 1960, Đồng chí được bổ nhiệm chức Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ. Với cương vị công tác này, Đồng chí đã có những đóng góp quan trọng có ý nghĩa lâu dài cho ngành Ngoại giao. Đồng chí đã tham mưu cho lãnh đạo Bộ Ngoại giao hoàn thiện dần hệ thống tổ chức bộ máy của Bộ, tổ chức đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ ngoại giao đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đồng chí là người đã xây dựng những nguyên tắc về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngoại giao, những nguyên tắc này cho đến nay vẫn còn giá trị. Để giải quyết tình trạng thiếu cán bộ làm công tác ngoại giao kéo dài, đồng chí Phạm Văn Chiêu vừa chú ý công tác đào tạo cán bộ ở trong và ngoài nước, vừa đề xuất với Ban Tổ chức Trung ương điều động về Bộ Ngoại giao nhiều cán bộ miền Nam tập kết, đó là những cán bộ trưởng thành từ thực tiễn, vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ học vấn, giỏi ngoại ngữ. Sự trưởng thành, phát triển của Bộ Ngoại giao về sau này có công lao đóng góp của Đồng chí.
Tháng 12 năm 1963, đồng chí Phạm Văn Chiêu được chuyển công tác về làm Chánh Văn phòng Tổng cục Thống kê. Trong cương vị công tác mới, Đồng chí đã góp phần chấn chỉnh công tác văn phòng; xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa Văn phòng và Công đoàn Tổng cục để chăm lo đời sống cho cán bộ, nhân viên.
Tháng 02 năm 1968, đồng chí Phạm Văn Chiêu nhận quyết định nghỉ hưu. Sau ngày giải phóng miền Nam, Đồng chí về sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đồng chí Phạm Văn Chiêu từ trần ngày 8 tháng 9 năm 1991.
Từ một nhà giáo, nhà trí thức yêu nước trở thành người cộng sản, dấn thân vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đồng chí Phạm Văn Chiêu đã cống hiến trọn đời cho Đảng, cho nhân dân. Cuộc đời của Đồng chí đã gắn bó với Gia Định, với Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần làm vẻ vang cho quê hương mình. Đồng chí còn là người sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Là một nhà lãnh đạo tài năng, Đồng chí còn là một nhà viết sử. Cuốn hồi ký “Cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào Gia Định (1945 - 1954)” không chỉ tái hiện trung thực cuộc kháng chiến ở một vùng đất giàu truyền thống cách mạng, kiên cường mà anh dũng với những kỳ tích trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà còn thể hiện phẩm chất trong sáng của Đồng chí, người luôn đề cao vai trò của nhân dân và tận tâm phục vụ nhân dân, với một tình cảm nồng nàn, sâu sắc biết ơn đồng bào tỉnh Gia Định đã viết nên những trang sử vẻ vang.
Với những cống hiến của đồng chí Phạm Văn Chiêu, Đồng chí đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập. Tên Đồng chí Phạm Văn Chiêu đã được đặt cho một con đường ở Thành phố Hồ Chí Minh, một trường Trung học cơ sở ở Quận Gò Vấp và một trường tiểu học ở Quận 12.
Du học ngành giáo dục mầm non vào năm 2016, lý do thôi thúc Nguyễn Thanh Tùng chọn nghề này bởi câu chuyện thuở ấu thơ.
Sở thích màu đen và tình yêu dành cho trẻ nhỏ
Khi còn nhỏ, cũng như bao trẻ em khác, Tùng thường được hỏi "con thích màu gì?". Nhưng câu trả lời của Tùng lại không giống với bạn bè. Với Tùng, màu đen là sở thích, là thứ màu đem lại cho cậu nhiều mong muốn khám phá.
Với mẹ và cô giáo, sở thích đó không ổn. Cả cô và mẹ đều khuyên Tùng nên chọn một màu khác tươi sáng hơn, bởi trong mắt mọi người, đen là một màu u ám.
Tùng không thay đổi sở thích của mình, nhưng những lời khuyên thuở bé của người lớn đã ghim sâu vào trong tâm trí chàng giáo viên mầm non. Tùng mong muốn góp phần thay đổi suy nghĩ của người lớn về việc nên giáo dục trẻ theo hướng để trẻ được tự tin nêu ra nhiều ý kiến riêng của bản thân, biết cách bảo vệ chính kiến của mình trước người lớn.
Thêm vào đó, tình yêu dành cho trẻ nhỏ, niềm đam mê nghề giáo đã đưa Tùng đến bang Victoria, Australia và học tập tại trường Holmesglen Institute.
Tháng 4/2017, ngôi trường đầu tiên bắt đầu để vào nghề là Explorers Early Learning, Tùng là 1 trong 2 giáo viên nam của trường. Những ngày đầu đi dạy, Tùng gặp nhiều tình huống khá trớ trêu mà Tùng gọi đó là “cú sốc đầu đời”.
Theo đó, trong một lần dạy học, Tùng được một phụ huynh gọi ra nói chuyện riêng, yêu cầu cậu không thay tã cho con gái của họ. Tùng cảm thấy "stress" vì đề nghị của phụ huynh chỉ vì mình là giáo viên nam.
Nhưng sau đó, khi nhận được nhiều lời đề nghị khác như không cho con họ ăn quá nhiều tinh bột, không để con họ tiếp xúc với những đồ vật có lông... Tùng nhận ra, đó chỉ là quan điểm nuôi dạy con của mỗi người. “Australia là đất nước đa văn hoá và mỗi phụ huynh lại đến từ nhiều nước khác nhau, sở hữu nền văn hoá, tín ngưỡng khác biệt. Vì vậy, mỗi người sẽ có một quan điểm riêng trong cách nuôi dạy con cái”, Tùng chia sẻ.
Thay vì buồn rầu, Tùng đã dành nhiều thời gian hơn chia sẻ về việc học của các con để tăng độ tin tưởng và tôn trọng quyết định của các phụ huynh. Dần dần, các phụ huynh cởi mở hơn với Tùng và tin tưởng vào việc gửi gắm con em họ cho Tùng.
Tùng và các học sinh trong một buổi học tại trường Guardian Childcare And Education. (Ảnh: NVCC)
Khoảnh khắc khiến Tùng xúc động nhất từ khi vào nghề là trong một giờ hoạt động ngoài trời, đột nhiên một học sinh được Tùng đánh giá trầm tính, ít nói gọi Tùng là “Tunnie” - một cách gọi vô cùng thân mật theo văn hoá Australia. Từ đó, các học sinh khác cũng gọi Tùng với cái tên gần gũi ấy. Điều đó đồng nghĩa với việc các con xem Tùng là một phần của tuổi thơ các con.
Tùng cũng được học sinh yêu quý vì luôn nghĩ ra những trò chơi năng động và có thể dễ dàng tham gia cùng các bé. Tùng là người luôn được nhắc đến khi các giáo viên nữ cần sự hỗ trợ về dịch chuyển các đồ vật trong lớp học cũng như góp ý về các trò chơi vận động trong hội thao của trường.
Cậu cũng thường lồng ghép các trò chơi Việt Nam như nhảy dây, trốn tìm, bịt mắt bắt dê... và giới thiệu về Tết Việt, bánh chưng cho các học sinh. Điều này vừa giúp các con hiểu thêm về nền văn hoá mới, vừa để quảng bá hình ảnh của Việt Nam.
Bà Rosalie Nacca, hiệu trưởng trường Guardian Childcare And Education (thành phố Adelaide, Australia) – nơi Tùng đang công tác cho biết, vì trẻ em hiếm khi nhìn thấy một hình tượng nam tính trong quãng thời gian đầu đời hoặc có rất ít thời gian được chơi cùng bố, do đó vai trò của một giáo viên nam trong môi trường mầm non là vô cùng quan trọng.
Các thầy giáo mang đến cho trẻ những cơ hội học tập về sự đa dạng trong cộng đồng mà trẻ đang sống, cùng với đó là khuyến khích trẻ hiểu được những đặc điểm của giới tính.
“Tùng là giáo viên nam duy nhất tại trường chúng tôi. Hầu hết các phụ huynh và học sinh đều thích có một người giáo viên nam tại trường”, bà Rosalie Nacca nói.
Cô Ruba Al-Sheikh – đồng nghiệp của Tùng cho biết, khi xây dựng các chương trình học, thầy Tùng luôn mang đến những ý tưởng tập trung vào việc giúp trẻ phát triển các kĩ năng. Tùng sử dụng triết lý giáo dục Reggio Emilia (triết lý giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong hoạt động dạy và học) để mang đến một môi trường học gợi tạo nên sự tò mò và ngạc nhiên, thích thú cho trẻ.
Nguyễn Thanh Tùng làm giáo viên mầm non tại Australia. (Ảnh: NVCC)
Sau khoảng thời gian đi dạy, Tùng thay đổi rất nhiều quan điểm liên quan đến giáo dục mầm non và Tùng mong muốn có thể lan toả những thông tin bổ ích này đến với phụ huynh, giáo viên tại Việt Nam. Vậy nên, Tùng cùng đồng nghiệp đã triển khai Teachers GARA. Teachers GARA là nơi Tùng chia sẻ những giáo trình, học cụ, tài liệu tự làm hoặc sưu tầm được từ những giảng viên hàng đầu trong ngành giáo dục mầm non ở Úc.
“Khi thành lập nên Teachers GARA, mình mong muốn tạo nên một môi trường thân mật tương tự như gara. Tại đây, mình, phụ huynh và các giáo viên có thể cùng nhau chia sẻ, học hỏi, thử nghiệm và tận hưởng những niềm vui trong quá trình phát triển cùng trẻ.
Mình mong muốn đưa đến cho người đọc những thông tin, nghiên cứu và ứng dụng liên quan đến giáo dục mầm non môt cách khách quan và gần gũi nhất, từ đó để thể chủ động hơn trong tiếp cận cách thức giáo dục phù hợp”, Tùng nói.
Tùng hiểu rõ sự khác nhau giữa văn hoá Đông, Tây, đặc biệt trong cách nuôi dưỡng và dạy dỗ. Vậy nên, tất cả các vấn đề được chia sẻ trong dự án Teachers GARA, yếu tố ứng dụng thực tiễn với văn hoá Việt Nam sẽ được đặc biệt cân nhắc.
Tùng mong các phụ huynh, giáo viên tại Việt Nam đón nhận dự án này một cách khách quan nhất. Và nếu có cơ hội, Tùng hy vọng được trực tiếp về Việt Nam và góp phần mang đến các giá trị mới trong cộng đồng giáo dục mầm non cho người Việt. Và quan trọng nhất, Tùng muốn lan toả thông điệp - nam giới cũng có thể làm giáo viên mầm non và hoàn thành tốt công việc của mình trong việc nuôi dạy con trẻ.
Video: Thanh Tùng trò chuyện cùng giáo viên chủ nhiệm lớp sơ sinh ở Australia về nghệ thuật trò chuyện với trẻ
Melde dich an, um fortzufahren.
Melde dich an, um fortzufahren.
Email về trang này: [email protected]
Cao Huy Thuần Phạm Duy Thoại Vũ Ngọc Hoàng Trần Ngọc Vương Huỳnh Như Phương Nguyễn Thị Từ Huy
Phê bình Văn hoá Giáo dục Chân dung & phỏng vấn Các nhà văn nữTruyện Văn học Trung QuốcPhóng sự Tiền chiến
Diễn Đàn eVănVăn học Việt Nam Tạp chí Hoạt Động Khoa Học Nhân Văn Quốc VănTrang Văn Học của Huế Sông Cửu Long Văn chương Việt Văn hoá Nam bộ Phù Sa Nhịp SốngGió O Trang văn học của VDC Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia tiếng Việt) Vietnam Literature Project e-cadao Ngôn Ngữ Net PhongDiep.net Viện Văn học Hội Luận Văn Học
Việt Nam gia phảẨm thực Viet World Kitchen Trang web Phạm Duy (nguoitinhgia)
Trước 4-3-2005: trang 2, trang 3 Tháng 4/2006 Tháng 5/2006 Tháng 6/2006 Tháng 8, 2006 Tháng 9/2006 Tháng 10/2006 Tháng 11/2006 Tháng 12/2006 Tháng 1/2007 Tháng 2/2007 Tháng 3/2007 Tháng 4/2007 Tháng 5/2007 Tháng 6/2007 Tháng 7/2007 Tháng 8/2007 Tháng 9/2007 Tháng 10/2007 Tháng 11/2007 Tháng 12/2007 Tháng 1, 2008 Tháng 2, 2008 Tháng 3, 2008 Tháng 4, 2008 Tháng 5, 2008 Tháng 6, 2008 Tháng 7, 2008 Tháng 8, 2008 Tháng 9, 2008 Tháng 10, 2008 Tháng 11, 2008 Tháng 12, 2008 Tháng 1, 2009 Tháng 2, 2009 Tháng 3, 2009 Tháng 4, 2009 Tháng 5, 2009 Tháng 6, 2009 Tháng 7, 2009 Tháng 8, 2009 Tháng 9, 2009 Tháng 10, 2009 Tháng 11, 2009 Tháng 12, 2009 Tháng 1, 2010 Tháng 2, 2010 Tháng 3, 2010 Tháng 4, 2010 Tháng 5, 2010 Tháng 6, 2010 Tháng 7, 2010 Tháng 8, 2010 Tháng 9, 2010 Tháng 10, 2010 Tháng 11, 2010 Tháng 12, 2010 Tháng 1, 2011 Tháng 2, 2011 Tháng 3, 2011 Tháng 4, 2011 Tháng 5, 2011 Tháng 6, 2011 Tháng 7, 2011 Tháng 8, 2011 Tháng 9, 2011 Tháng 10, 2011 Tháng 11, 2011
Tháng 12, 2011 Tháng 1, 2012 Tháng 2, 2012 Tháng 3, 2012 Tháng 4, 2012
Tháng 6, 2012 Tháng 7, 2012 Tháng 8, 2012
Tháng 10, 2012 Tháng 11, 2012 Tháng 12, 2012
Tháng 1, 2013 Tháng 2, 2013 Tháng 3, 2013 Tháng 4, 2013 Tháng 5, 2013
Tháng 8, 2013 Tháng 9, 2013 Tháng 10, 2013 Tháng 11, 2013 Tháng 12, 2013 Tháng 1, 2014
Tháng 4, 2014 Tháng 10, 2014
Tháng 12, 2014 Tháng 1, 2015 Tháng 2 - Tháng 12, 2015 Tháng 1 - Tháng 11, 2016
Tháng 12, 2016 - Tháng 6, 2017 Tháng 7, 2017 - Tháng 12, 2017 Tháng 1, 2018 - Tháng 5, 2018 Tháng 6, 2018 - Tháng 9, 2018
Tháng 10, 2018 - Tháng 12, 2018 Tháng 1, 2019 - Tháng 3, 2019 Tháng 4, 2019 Tháng 5, 2019 Tháng 6, 2019 Tháng 7, 2019 - Tháng 9, 2019 Tháng 10, 2019 Tháng 11-12, 2019 Tháng 1 - Tháng 12, 2020 Tháng 1 - Tháng 12, 2021
Vì bận nhiều việc, trang này sẽ không được cập nhật thường xuyên khoảng 1 tuần, kể từ thứ hai 27-2-23. Xin các bạn tha lỗi!
Nhà thơ, dịch giả Dương Tường qua đời (DT 24-2-23) Nhà thơ, dịch giả Dương Tường vĩnh biệt trần thế (DV 24-2-24)Dịch giả 'Cuốn theo chiều gió' Dương Tường qua đời (VNN 24-2-23) Dịch giả Dương Tường qua đời (VnEx 24-2-23) Nhà thơ, dịch giả Dương Tường qua đời (Zing 24-2-23) Nhà thơ, dịch giả Dương Tường rời cõi tạm (TN 24-2-23) Nhà thơ, dịch giả Dương Tường qua đời (TT 24-2-23) Nhà thơ, dịch giả gạo cội Dương Tường qua đời (NLĐ 24-2-23) Dương Tường (1932-2023): Người nghệ sĩ chọn cái đẹp để đứng thẳng trong cuộc đời 'bất an' (BBC 25-2-23) Dương Tường (1932-2023) (DiễnĐàn 25-2-23) -- Đọc thêm những link từ bài này Dương Tường: Một người thơ, một người tri thức lịch lãm và tử tế (DT 25-2-23) Dịch giả Dương Tường: Một cuộc đời tận hiến cho văn chương (DV 25-2-23) Dịch giả Dương Tường: Đời phu chữ (VnEx 25-2-23) Nhà thơ, dịch giả Dương Tường: Say chữ, cả đời làm phu chữ (TP 25-2-23) - Nhà thơ, dịch giả Dương Tường - Một đời ăn nằm với chữ (Zing 25-2-23) Tiễn biệt Dương Tường, 'người đứng về phe nước mắt' (TN 25-2-23)
Báo cáo Thủ tướng kết quả xác minh cuốn nhật ký của liệt sĩ lưu lạc ở Mỹ (DT 24-2-23)
Người đàn bà đẹp viết văn (Zing 24-2-23) Thùy Dương
Nhịp sống đô thị qua ‘Thành phố của Long’ (NĐT 24-2-23) -- Thật đáng cảm phục!
'Có họa sĩ chưa vẽ tranh cổ động nhưng lại đi chấm tranh cổ động' (PLTP 24-2-23)
Thời gian trong mắt bác sĩ Trần Hữu Nghiệp (VNCA 16-23) -- Rất "hân hạnh" được Văn Nghệ Công An đăng bài này
Thay đổi xã hội làm đảo lộn nền nếp văn hóa (NĐT 17-2-23) Vương Trí Nhàn◄
Văn hoá VN: Suy nghĩ nhân một lần viếng núi Bà Đen (BBC 17-2-23)
Dịch bệnh sính bằng cấp (TT 17-2-23)
Chữa bệnh lười đọc sách (ĐĐK 17-2-23)
Đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ: Còn nể nang, dễ dãi khi thành lập hội đồng đánh giá luận văn, luận án (DV 17-2-23) -- Đúng! Trước khi chê cười những luận án tào lao, phải xem ai là người đồng ý trong các hội đồng này, họ "hướng dẫn" ra sao? Bộ trưởng GD&ĐT: Có tình trạng nể nang, dễ dãi trong đào tạo tiến sĩ (TP 17-2-23)
Hội thảo “Đề cương về văn hóa Việt Nam - Khởi nguồn và động lực phát triển” sẽ diễn ra vào 27/2 (DV 17-2-23) Tại sao phải hội thảo? Một vấn đề quan tọng như thế này phải được thường xuyên nghiên cứu, đa ngành, trao đồi, đâu phải chỉ một hội thảo (dù đình đám) là xong?
Lần đầu tiên, ngành xuất bản cán mốc 6 bản sách/người/năm (SGGP 17-2-23)
TP.HCM sẽ chi hàng tỉ đồng mua sách giáo khoa cho học sinh mượn (TN 17-2-23) -- Một quyết định đúng, đáng hoan nghênh!
NSND Thái Thị Liên: Người thầy của nhiều nghệ sĩ tài danh (ĐĐK 17-2-23)
Georges, Henri... và hôm nay Pierre (Diễn Đàn 27-12-22) Nhà sử học Pierre Brocheux, chuyên gia về Việt Nam, qua đời (RFA 28-12-22)◄
Bài phỏng vấn Pierre Brocheux trên Thời Đại Mới: Những Suy Tưởng về Việt Nam (TĐM 3/2012) --Trên Tia sáng (2017): Khách quan và bình lắng nhìn về một quá khứ đầy xung đột.
Những từ ngữ thành trào lưu trong giới trẻ năm 2022 (Zing 28-12-22) -- "Ú òa", "Hay ra dẻ quá à", "Mai đẹt ti ni" , "báo" ,"Gét gô" , "Ét o ét" , "Ô dề" hay "làm quá nó ô dề" , "Tuyệt vời lắm chị", "Hay quá chị yêu" hay "Dùng tốt lắm shop" Bài quá hay! ◄◄
Cơ cấu tổ chức mới của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (TP 28-12-22)
Trưởng Ban tổ chức vụ phong tặng danh hiệu "nhà thơ thế giới": "Chúng tôi không làm gì sai"! (DV 27-12-22)
Vụ 'nhà thơ thế giới' Tống Thu Ngân: Thói háo danh quá đà hay bệnh hậu Covid? (VNN 27-12-22) -- Bài Trần Thị Trường
Trường đại học, cao đẳng chật vật thuê mướn cơ sở đào tạo (SGGP 28-12-22)
Học sinh TP.HCM thừa cân béo phì chiếm tỷ lệ cao nhất trong bệnh tật học đường (TN 28-12-22)
Tại sao môn văn dưới góc nhìn xã hội lại bị giảm sút uy tín? (TN 5-11-22) Ý kiến Huỳnh Như Phương. THD xin thêm: Theo một nghiên cứu gần dây ở Mỹ thì yếu tố thành công đầu bảng của một người không phải là kiến thức về hóa học, địa chất, thậm chí toàn (từ đại số trở lên) những môn này ai thích thì có thể học sau này. Yếu tố quan trọng nhất trong bất cứ ngành nghề nào là khả năng viết báo cáo, phát biểu, thuyết trình cho rõ ràng mach lạc... học từ môn văn!
Giáo sư Huỳnh Như Phương: 'Dạy văn ở phổ thông chủ yếu là dạy người' (TT 5-11-22)
Ngô Thụy Miên, giấc tình ca bất tuyệt (Diễn Đàn 3-11-22)
GS Ngô Bảo Châu: "Tâm lý học để đi thi làm hỏng tư duy Toán học của các em" (DT 5-11-22) GS Ngô Bảo Châu: Đáng tiếc khi học sinh tbiết nhiều thứ nhưng lại rất sợ Toán (VNN 5-11-22) -- Tại sao lại "đáng tiếc"? Tôi nghĩ là "thiên tài" ở ngành nào cũng phải khách quan mà nhìn nhận rằng có những ngành khác quan trọng hơn, tùy người, tùy lãnh vực, tùy năng khiếu, sự cần thiết của môn đó trong ngành của người ấy... (có mấy ai sau trung học phải lấy đạo hàm của một hàm số?) Tưởng tượng Trần Đức Thảo cũng nói như Ngô Bảo Châu nhưng thay chữ "toán" bằng chữ "triết". Biết nghe ai? (Có thể GS Châu đã dư biết điều này nhưng báo chí tường thuật không đúng ý ông. Trong trường hợp đó, tôi xin lỗi ông)
Nhà văn Lê Trâm: Số phận con người mong manh trước thiên tai (ĐĐK 5-11-22)
Đã dừng một cuộc ‘rong chơi’ (ĐĐK 4-11-22) -- Học giả An Chi
Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Vỹ: Con người cách tân và nổi loạn (VHSG 2-11-22)
Truyền hình dễ dãi, tiếng Việt sai khác (TT 4-11-22)
Kỳ Thanh: Chiết Tự Chữ Hán (viet-studies 11-7-22) -- Thêm một khảo cứu công phu của tác giả Tình Bắc Duyên Nam (viet-studies 3-6-22)◄◄
Dốt hay nói chữ (Cali Today 7-7-22)◄◄
Học đại học để làm gì? (DT 10-7-22) -- Để... hoãn đi tìm việc làm?
"Thủ thuật" bán SGK "bia kèm lạc" trường không ép mà phụ huynh vẫn phải mua (GD 10-7-22)
Đỏ mắt tìm nhà phê bình trẻ (SGGP 10-7-22)
'Bữa tiệc' của tình văn nghệ (TT 10-7-22)
Khám phá âm nhạc cổ điển (KTSG 10-7-22) -- Báo Kinh Tế mà đăng bài này thì thật là "chịu chơi"! THD là tín đồ 24/7 của nhạc cổ điển, nhất là concertos: Thứ hai hàng tuần: horn, thứ ba: cello, thứ tư: clarinet, thứ năm: violin; thứ sáu: bassoon, thứ bảy: viola/oboe, chủ nhật: Bach/piano. Symphonies thì nghe hoài, đâm... chán! Ban đêm thì nghe chamber music của Beethoven hoặc Haydn. Buồn thì nghe Schubert, Brahms Vui thì nghe Rossini, Cimarosa, Hummel, Sousa. Giận thì nghe Wagner. Ghét nhất là Tchaikovsky. Muốn đập đầu vào tường thì nghe Copland, Ives, Berg. Muốn tự tử thì "nghe" John Cage. Strauss thì để cho con nít nghe. Chopin, Liszt thì dành cho... quý bà. Thay vì nghe operas thì nên nghe vọng cổ. Không biết nghe ai thì bật lên Mozart. (Giả thuyết của THD: Có phải "Quintet in C major" của Schubert là ăn cắp từ tiếng... trống cơm của Việt Nam?)
Văn chương trẻ đang ở đâu? (ĐĐK 15-6-22)
Các “bầu sô” nghệ thuật ở đâu trong công nghiệp văn hoá nước nhà? (VietTimes 15-6-22) -- Câu hỏi rất hay!
Chữ 'thật' trong giáo dục (TT 15-6-22)
Nhiều sinh viên đã xin nghỉ học vì không kham nổi học phí, sinh hoạt (GD 15-6-22)
Hội Nhà văn lên tiếng về việc hỗ trợ vé tàu xe cho đại biểu tham dự hội nghị viết văn trẻ (SGGP 15-6-22) Xã hội cười: Nhà văn xin vé (VnEx 15-6-22)
Xét danh hiệu nhân dân, ưu tú cho nhà văn, kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia: Vô lí, không cần thiết (TP 15-6-22)
Định nghĩa nhà báo 'ăn bám, thất nghiệp' là rất tiêu cực (Zing 15-6-22) Tác giả từ điển nói về "nhà báo" được diễn giải là "người thất nghiệp, ăn bám" (NLĐ 15-6-22)
Về chiến tranh Việt Nam trong phim Mỹ: Our Man in Hollywood (Baffler 15-6-22) -- Nói nhiều về phim "Người Mỹ trầm lặng" dựa vào tiểu thuyết của Graham Greene. (Hi vọng có ngày tôi sẽ viết xong "tiểu sử nhóm" của 4 "ngự lâm văn chương thế kỷ XX": Arthur Koestler, Albert Camus, George Orwell, và Graham Greene. Mỗi người một cách, họ là những ngòi bút vừa tài ba, vừa thật sự "dấn thân". đáng khâm phục!)
Nhà văn Linda Lê từ trần: Linda Lê (1963-2022) (Diển Đàn 9-5-22) Linda Lê - nhà văn gốc Việt số 1 ở Pháp đột ngột qua đời (TT 9-5-22) Nhà văn gốc Việt Linda Lê qua đời ở tuổi 58 (PN 9-5-22) Linda Lê, l’écrivaine à l’œuvre peuplée de fantômes, est morte ( L'Obs 9-5-22) La romancière française Linda Lê est morte (Le Monde 9-5-22)◄
Từ luận án "tiến sĩ cầu lông": Bộ GD-ĐT thẩm định các luận án có phản ánh? (DT 8-5-22)
'Nhân bản' đề tài luận án tiến sĩ: Hàng chục đề tài gần giống nhau, sai thể loại (TT 8-5-22)
Nhiều luận án 'tiến sĩ cầu lông': Ấm ớ sao vẫn được duyệt? (ĐĐK 8-5-22)
"Tiến sĩ cầu lông" - một thực tế không có gì lạ! (DT 8-5-22) -- Xin lưu ý các "tiến sĩ" được phỏng vấn hoặc viết bài bình luận về "sự cố" này: Quý vị đừng lợi dụng cơ hội này đề ngầm khoe là bằng tiến sĩ của quý vị mới là "thứ thiệt", rằng đại học (đa số là nước ngoài) của quý vị khắt khe lắm, rằng tiến sĩ như quý vị mới là "xứng tầm tiến sĩ"! Thái độ khoe khoang ấy, dù gián tiếp, ngấm ngầm, cũng hơi... khó ngửi! (Xem thêm bài tôi đã viết: Phiếm luận về danh xưng với học vị, học hàm (Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn 2017)
Đại học mở nhiều ngành mới, cạnh tranh nhau để tuyển sinh (VNN 8-5-22) Tìm đâu ra giảng viên cho những ngành này? Hay là "tối đọc sách, sáng lên bục giảng"?
Nhà thơ Vân Long- “Trẻ đến làm đau cả lá vàng” (VHSG 8-5-22)
Từ trong di cảo của học giả Vương Hồng Sển (TN 8-5-22)
Họa sĩ Phan Cẩm Thượng: Vẽ là cho chính mình… (ĐĐK 8-5-22)
Vì sao trường học hay trồng phượng? (Zing 8-5-22) -- Bài có ích!
Vụ tiến sĩ cầu lông: Háo danh hay vì tiền? (VNN 7-5-22) -- Hoặc cả hai?
Tác giả Hồng Sakura: Muốn thành công và sống được với nghề, người viết phải nhận ra mình ngay trên trang viết (SGGP 5-5-22)
Điềm Phùng Thị - một ‘tạo hóa’ trong điêu khắc (ĐĐK 7-5-22)
Nguyễn Huy Tưởng với văn học Nga (ĐĐK 7-5-22)
Nghề độc, lạ: "Bác sĩ sách" thu cả trăm triệu đồng cho một "ca bệnh" (DT 7-5-22)
Thầy giáo ngồi im khi nữ sinh dùng mũ bảo hiểm đánh bạn trong lớp (DT 7-5-22) -- Có lẽ vì thầy giáo nghĩ đến vợ của mình?
Vòng mê hoặc của Đức Phật, Nữ chúa và điệp viên (TT 7-5-22) -- Tiểu thuyết Hồ Anh Thái
Đi tìm bản nguyên hội họa Nguyễn Quang Thiều (NĐT 7-5-22)
Bài phỏng vấn Ocean Vương cực hay: Writer Ocean Vuong: ‘Beauty is medicinal to me. It’s not useless’ (Financial Times 6-5-22) - "For Vuong, losing his mother has also profoundly rewritten the function of time. “There is only today, when my mother is not here, and yesterday, when she was . . . When I look at my life now, I just see it in two days.” Once grief fades, he says, “Now you have to negotiate memory.” WOW! "Thương thuyết ký ức"! (Rất tiếc, bài này cần subscription)
"Xã hội mà vô đạo thì sẽ mất lý tưởng" (TTCT 21-2-22) -- Nguyễn Thị Ngọc Hải p/v nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. (Người phỏng vấn nhờ đính chính: Tên người sáng lập nxb Mai Lĩnh là Đỗ Văn Phong, trong bài viết làm là Nguyễn Minh Phong)
Ủy ban Nobel muốn tìm kiếm giá trị văn chương Việt (Zing 22-22-22) -- "Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nói ông sẽ viết thư hồi đáp" TRỜI ĐẤT ƠI! Dù thư của Ủy ban Nobel đến trễ, ông cũng đã nhận được hơn 1 tuần rồi, mà vẫn chưa hồi đáp?
Cần hủy vĩnh viễn hồ sơ ứng viên GS, PGS đăng bài ở tạp chí mạo danh (GD 22-2-22) -- Ai chưa đọc thì nên đọc BÀI BỐC LỬA: Tại Việt Nam gian lận học thuật là ngành kinh doanh lớn (viet-studies 24-1-22) Bản dịch của một thân hữu bài Surrogate Scholars are Big Business in Vietnam (Asia Sentinel 24-1-21)
“Phá băng” thị trường du học (PN 22-2-22)
Bài báo của ứng viên giáo sư, phó giáo sư ngành kinh tế bị loại thế nào? (DT 22-2-22)
Cõi nhân gian: Bức tranh về đời người dâu bể (SGGP 22-2-22)
Cuộc sống bế tắc của thần đồng đỗ đại học năm 10 tuổi ở Trung Quốc (Zing 22-2-22) -- Tôi biết rất nhiều trường hợp như thế này, ngay khi là "thần đồng" đến PhD. Tôi quen một anh (người Mỹ) có PhD năm 22 tuổii, làm giáo sư thực thụ năm 24 tuổi. Nhưng anh ta mập ú, không có vợ, trong khoa thì không ai chơi với anh (vì anh ta không biết xã giao, không biết "chuyện đời" gì cả!). Mỗi buổi chiều thấy anh lủi thủi ra về, tôi hơi... thương hại anh ta!
ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI:Chung quanh cuộc hội thảo sáng tác trẻ tại Hà Nội (Tuổi trẻ, 13-11-1988)
Sự thô lậu của “chữ nghĩa cộng sản” (Sài Gòn Nhỏ 15-1-22) -- Bài cực kỳ công phu, quá LÀ hay!
Xây dựng ĐHQG TPHCM nằm trong nhóm đầu châu Á (SGGP 16-1-22) -- Ráng vào nhóm đầu Đông Nam Á trước đi!
Tinh thần giáo dục vì nhân sinh của Phật giáo (ND 16-1-22) -- Hmm... còn tinh thần giáo dục của Thiên Chúa giáo, Tin Lành giáo... thì KHÔNG vì nhân sinh? Xin giải thích!
Tọa đàm khoa học: Giải pháp để phát triển tự chủ đại học (GD 16-1-22) -- Trong bài này, cũng như đa số bài khác trên báo Việt Nam, trước tên vị nào cũng đề là "Phó Giào sư, Tiến sĩ"! Nếu bỏ những chữ này (hoặc chỉ kê khai một lần ở đoạn đầu), thì số lượng mực, giấy in, tiết kiêm được có thể đên hàng triệu đô là mỗi năm. Xây được vài km đường cao tốc!
Lo lắng di tích bị xâm hại (SGGP 16-1-22)
Dịch thuật Sài Gòn: Từ phim sang truyện đến nhạc (NĐT 16-1-22)
Về một bộ phim báng bổ văn hóa dân tộc (HV 13-1-22) -- Báo này báng bổ phim "Vị"
Ocean Vuong: Lịch sử người Việt ở Mỹ hầu như là làm phục vụ, nhưng tôi muốn thay đổi điều đó (TT 16-1-22)
Nhà văn - bác sĩ Phạm Ngọc Khuê: Bước chân người lính Tây Tiến năm xưa (VNQĐ 16-1-22)
Nghe thấy tiếng người trong văn (VNQĐ 14-1-22) -- Nguyễn Thị Tịnh Thy viết về Nguyễn Xuân Khánh
Lê Minh Quốc - Tình yêu nồng nàn dành cho tiếng Việt (NLĐ 16-1-22)
Câu chuyện chúng tôi muốn nói ở đây là Trường THPT Đinh Tiên Hoàng, nơi có vị “thủ lĩnh” là một chuyên gia tâm lí học – TS. Nguyễn Tùng Lâm.
Nói tới tên tuổi của người thầy có mái tóc bạc này hẳn ai ở Hà Nội và trong Hội tâm lí đều biết tới ông, được mệnh danh là “chỉ huy trưởng” của một mái trường mà nhiều người vẫn thường gọi là trường “Đinh kinh hoàng”. Cái tên gọi đó đã nói lên tất cả, ở đây do tính chất không thi tuyển đầu vào nên thường quy tụ nhiều học sinh “cá tính”.
Mỗi lớp nếu chỉ có một vài học sinh như vậy đã rất vất vả, khó khăn, nhưng ở trường Đinh Tiên Hoàng 60% học sinh yếu kém văn hóa, 20% học sinh bị các trường khác xếp loại yếu kém đạo đức. Vậy, vị “chỉ huy trưởng” này đã có những cách dạy như thế nào để đảm bảo “học sinh nên người” ở đầu ra?
Đa phần những học sinh của trường Đinh Tiên Hoàng trước khi vào học là học sinh không nắm được kiến thức cơ bản ở cấp dưới, không có thói quen về nề nếp học tập, không có thói quen về tư duy độc lập, không có khả năng tự học, không có động cơ, ý chí để vương lên.
Thầy Nguyễn Tùng Lâm trong khi nói chuyện với chúng tôi luôn kể lại quá trình hình thành ngôi trường “đặc thù” này. Thầy bảo, trước những bức xúc như vậy phải làm thế nào để giáo dục học sinh trở thành “con ngoan, trò giỏi”, đó là một bài toán rất khó. Ngôi trường này ra đời cũng là để giải quyết bài toán đó.
Được thành lập từ năm 1989, khi mới có chủ trương ra đời thì ngay lập tức chủ trương này nhận được sự đồng tình vả ủng hộ của lãnh đạo thành phố Hà Nội và Sở GD&ĐT Hà Nội. Thế là từ một sinh viên Văn khoa, đến Chủ tịch Công đoàn ngành giáo dục Hà Nội, thầy Tùng Lâm đã trở thành hiệu trưởng của ngôi trường đặc biệt này suốt 25 năm qua.
Do tính chất, đặc thù học sinh nhà trường như vậy nên cách giáo dục ở đây cũng có nhiều cách làm khác so với những trường bên, giáo dục không thể cứng nhắc mà cần một “bàn tay” mềm dẻo hơn. Học sinh được tiếp nhận vào trường được coi là những học sinh có nhiều cá tính: “Chúng tôi coi học sinh hư là các em có cá tính, không có em nào là học sinh hư, cá biệt, giáo dục học sinh mà không biết trân trọng các em là không đúng với nguyên tắc sư phạm, không đúng với lương tâm của người thầy. Mặt khác các nền giáo dục tiên tiến không nước nào xếp loại đạo đức như giáo dục Việt Nam. Thế giới không có khái niệm học sinh yếu kém đạo đức” thầy Tùng Lâm chia sẻ.
Để dạy học sinh hiệu quả nhất, thầy Tùng Lâm đưa cho chúng tôi xem một sơ đồ đào tạo của trường giống như một cái cây. Ở đó, mỗi cành, mỗi nhánh có nhiệm vụ riêng để chung lại cho một thân cây phát triển bình thường. Nền tảng được đưa ra là: Giáo dục hướng nghiệp, giáo dục pháp luật và giáo dục kỉ luật tích cực, đây được xem là những “nguyên liệu” giúp học sinh phát triển.
Hỗ trợ cho môi trường cây phát triển là hai quá trình cơ bản được thầy Tùng Lâm áp dụng trong nhiều năm qua là: Giáo dục kĩ năng sống và giáo dục giá trị sống. Vậy, thân cây sẽ là gì, và học sinh đóng vai trò là thân hay là cành? Thầy Tùng Lâm chia sẻ thêm, thân cây đóng vai trò “tự học, tự rèn luyện”, đây là điều hết sức quan trọng.
Bài học lớn đối với học sinh ở đây theo sơ đồ hình cây sẽ là ngọn: Ngọn cây đóng vai trò đào tạo học sinh có được Tài và Đức, quanh Tài và Đức là dạy cho các em biết cách “Học để cùng chung sống, học để biết, học để làm, học để làm người”.
Những học sinh hư thường lười học, đó là điểm chung. Tuy nhiên, dưới cách giáo dục mềm dẻo của thầy Tùng Lâm, nhiều lứa học sinh ra trường đã trưởng thành. Bài học được áp dụng đó là: Cần có hứng thú cá nhân và xem đó là một nhân tố nội sinh, đây cũng là những mong muốn của nhà giáo dục, của học sinh, của gia đình.
Thầy Tùng Lâm cũng cho biết, nếu người thầy chỉ có tình yêu thương và niềm say mê thôi chưa đủ. Ở đây, mỗi người thầy cần phải là một “nghệ sĩ” tài năng và sáng tạo.
Chặt ngón tay để tự hứa với thầy
Giáo dục không chỉ là khuôn sáo, mà phải cần tính mềm dẻo. Người đời vẫn bảo “lạt mềm buộc chặt”, thầy Tùng Lâm luôn tâm niệm, dù có khó khăn đến mấy không được bỏ cuộc, không được từ bỏ ý chí đó. Học sinh của thầy cũng nhiều lúc làm thầy nổi giận, khó xử, nhưng hơn hết thầy muốn các em được thành người, tự lo cho bản thân khi ra đời.
Kể với chúng tôi về một tấm gương điển hình nhất của trường, cậu học sinh này nổi tiếng với những chiến tích cắm xe, cờ bạc không ai bằng. Nhà chỉ có hai mẹ con, bố mất sớm, mẹ phải tần tảo nuôi con bằng những chén nước chè, lại ốm đau bệnh tật, thế mà vẫn dành dụm cho con có xe máy đi học.
Nhưng cậu con quý tử ấy lại không chịu học hành, mà gán xe để có tiền ăn chơi. Cô giáo chủ nhiệm đã nhiều lần thuyết phục không được nên “trả lại nhà trường”. Thầy Lâm cho biết, với quan điểm cần phải làm cho học sinh biết mình được tôn trọng và khơi dậy lòng tự trọng lòng yêu thương, những giá trị cao quý của mỗi con người thì mới có thể giáo dục.
Ngay sau đó, cậu học sinh này được mời lên gặp thầy cùng mẹ của cậu ấy, cuộc nói chuyện diễn ra hết sức chân thành, cởi mở. Gặp hai mẹ con, thầy Lâm hỏi cậu học đó rằng: “em sống dựa vào ai?”, trả lời thầy, cậu ta đáp: “em sống dựa vào mẹ”. “Vậy mẹ em sống được là nhờ đâu?” và cậu ta ngồi im.
“Trong câu chuyện hôm đó tôi vẫn bảo, nhà chỉ có hai mẹ con, nên mẹ cũng sống được nhờ có em đấy”. Sau câu chuyện này, thầy quay sang hỏi bà mẹ: “Tôi nói như vậy chị có thấy đúng không?”, “Thầy nói đúng quá” bà mẹ đáp. Nói với học trò lần cuối, thầy Tùng Lâm khuyên: “Em mà biết tu chí học hành sau này có công việc thì mẹ mới đỡ khổ, nếu cứ chơi bời lêu lổng, rồi mẹ con cùng héo mòn mà đi theo cha! Con trai mà không làm được chỗ dựa cho mẹ già thì kém quá”.
Sau lần gặp riêng thầy hiệu trưởng, cậu học trò này đã có suy nghĩ khác, đã tích cực hơn, đã quyết tâm tu chí học hơn, ngoan hơn. Đặc biệt, khiến thầy Lâm và cả cô giáo chủ nhiệm, các bạn trong lớp bất ngờ là cậu ta đã tự chặt ngón tay út để tỏ rõ lòng quyết tâm học cho mẹ đỡ khổ của mình.
Cho tới bây giờ, cậu học trò một thời của thầy Lâm đã từng đỗ hai trường đại học lớn, vừa qua cậu học trò đó đã về thăm trường, thăm thầy và báo tin rằng, mẹ của mình đã khỏe mạnh hơn, vui hơn với sự thành công của mình hiện tại.
Khi được hỏi thêm về sự nghiệp làm giáo dục của mình có khi nào chán với lứa học sinh hư này không, thầy Nguyễn Tùng Lâm cho biết, không bao giờ nản trước công việc. Không nản vì không ó tham vọng lớn, không bị áp lực bởi những tham vọng đó: “Trong công việc thì mình phải kiên trì, luôn luôn gắn với thực tiễn để nghĩ ra các giải pháp phù hợp, giải quyết các bài toán của nhà trường”.
Thầy tâm đắc một điều, làm giáo dục phải kiên trì, đó là điều kiện đầu tiên. Phải tôn trọng quy luật khách quan, tìm hiểm kĩ giáo viên, học sinh để đưa ra quyết định tác động. Những sự việc cụ thể liên quan tới học sinh thì thầy Lâm quyết làm tới cùng, để mục đích giáo dục lại các em theo quy chuẩn, luôn nghĩ cách để có quản lí tốt, cũng chính vì đức tính này mà giáo viên trong trường quý thầy ở điểm đó.
Điều thứ hai, vị “chỉ huy trưởng “ này mong muốn thay đổi đội ngũ nhà giáo, đó là một đội ngũ trung thực, đánh giá nhà giáo phải đo tấm lòng của họ với học sinh, đo nghiệp vụ của họ giúp được gì cho học sinh.
Trước khi chia tay, chúng tôi đặt câu hỏi rằng, thầy còn làm giáo dục khi tới khi nào? Thầy Tùng Lâm khẳng định, còn làm cho tới khi ông trời còn cho mình sức khỏe. Vì trong suy nghĩ của thầy, luôn làm sao tìm cách để giúp học sinh khó khăn vượt qua khó khăn. Tâm niệm câu nói của nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, rằng: “Phải biểu dương những thanh niên tiên tiến, nhưng cũng không được để rơi những thanh niên chậm tiến”.
Ông Phạm Quang Dũng (SN 1954, quê quán Nam Định) đang là Chủ tịch HĐQT Tasco. Trước khi ngồi “ghế nóng” tại Tasco, ông Dũng từng là Kế toán ban chỉ huy công trường Thuỷ Lợi (Hải Hậu) rồi lên Giám đốc Công ty công trình Giao thông Nam Định.
CTCP Tasco (HNX: HUT) từng được xem là "ông trùm" BOT một thời với hàng loạt dự án trên các tuyến đường giao thông phía Bắc. Tuy nhiên, Tasco bắt đầu cho thấy những dấu hiệu kém hiệu quả hơn từ năm 2017 khi tổng doanh thu chỉ đạt 2.195 tỷ đồng, sụt giảm 26% so với năm 2016. Lợi nhuận sau thuế thu về 297,5 tỷ, giảm gần 27%.
Doanh thu và lợi nhuận của Tasco liên tiếp sụt giảm từ đầu năm 2017 đến nay và điều này đã có tác động đáng kể đến giá cổ phiếu trên sàn chứng khoán. Từng giao dịch tại gần 12.000 đồng/cp nhưng đến nay cổ phiếu chỉ còn 2.300 đồng/cp, khiến giá trị vốn hóa chỉ còn hơn 600 tỷ đồng.
Theo báo cáo tài chính bán niên 2019 đã qua soát xét, Tasco ghi nhận doanh thu hợp nhất đạt 600 tỷ đồng, nhích nhẹ ở mức 0,2% so với cùng kỳ năm trước.
Trong cơ cấu doanh thu 6 tháng đầu năm 2019 của Tasco, doanh thu đến từ kinh doanh bất động sản chỉ đạt 64 tỷ đồng, giảm 72% so với cùng kỳ. Trong khi đó, doanh thu hợp đồng xây dựng đạt 192 tỷ đồng; tăng gấp 8 lần cùng kỳ…
Nguyễn Tấn Dũng (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1949 tại Cà Mau) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Thủ tướng thứ sáu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2016. Từ năm 1997 đến năm 2016, ông cũng đồng thời là Đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa X, XI, XII, XIII thuộc đơn vị bầu cử khu vực 3 Thành phố Hải Phòng (huyện Tiên Lãng), Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa VIII, IX, X, XI, Trưởng ban Ban Chỉ đạo thi hành án phần tài sản vụ án EPCO - Minh Phụng từ năm 2002.
Ông từng giữ chức Trưởng ban Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Sau Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI), ban này chuyển sang cho Bộ Chính trị quản lý, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Ông được Quốc hội bầu lên vị trí Thủ tướng Chính phủ từ ngày 24 tháng 6 năm 2006 sau khi Thủ tướng tiền nhiệm Phan Văn Khải quyết định về hưu năm 2006. Sau đó ông tái đắc cử vào ngày 25 tháng 7 năm 2011.[1] Ông là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên của Việt Nam thuộc thế hệ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và cũng là một trong những Thủ tướng trẻ tuổi nhất khi nhậm chức là 56 tuổi.[2][3] Tại Đại hội Đảng lần thứ XII ông xin không tái cử vào Ban chấp hành Trung ương và được chấp nhận.[4] Từ ngày 6 tháng 4 năm 2016 ông thôi nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ, nghỉ hưu theo chế độ.[5]. Ông làm Thủ tướng vào cuối khóa X sau khi ông Khải từ chức rồi làm Thủ tướng qua 2 khóa XI và XII nên ông có 3 nhiệm kỳ làm Thủ tướng.
Nguyễn Tấn Dũng quê ở Thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Cha ông là Nguyễn Tấn Thử (tên khác: Nguyễn Tấn Minh, Mười Minh)[6] chính trị viên phó Tỉnh đội Rạch Giá, mất ngày 16 tháng 4 năm 1969, khi một trái bom Mỹ đã ném trúng hầm trú ẩn của Tỉnh đội Rạch Giá, và được truy phong liệt sĩ.[7][8]
Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Hường (1924 – 2017).[9][10] Bà là chị em con chú con bác với diễn viên Nguyễn Chánh Tín.
Là con thứ hai trong gia đình, Nguyễn Tấn Dũng còn được gọi với cái tên Ba Dũng.[11]
Khi tham gia quân đội năm 1961, ông học Bổ túc văn hóa cấp III và Khóa đào tạo Quân y sỹ và Bổ túc chương trình Phẫu thuật ngoại khoa của bác sĩ Quân y đến tháng 12 năm 1976. Từ tháng 1 năm 1977, học khóa Sỹ quan chỉ huy cấp Tiểu đoàn - Trung đoàn đến tháng 9 năm 1981.
Năm 1981, ông thôi phục vụ trong quân đội, tháng 10 năm 1981 ông học ở Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc tại Hà Nội đến tháng 12 năm 1994. Năm 1991 ông học Cử nhân Luật của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh hệ tại chức đến năm 1994.[12]
Năm 1961, ông tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam, làm công tác văn thư, liên lạc, cứu thương, y tá, y sĩ. Nguyễn Tấn Dũng sau đó lần lượt giữ các chức vụ: Tiểu đội bậc trưởng (tương đương Trung sĩ), Trung đội bậc trưởng (Chuẩn úy), Đại đội bậc phó (Thiếu úy), Đại đội bậc trưởng (Trung úy) – Đội trưởng Đội phẫu thuật, Đại đội trưởng và Chính trị viên trưởng Đại đội Quân y thuộc Tỉnh đội Rạch Giá. Nguyễn Tấn Dũng được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam ngày 10 tháng 6 năm 1967, chính thức ngày 10 tháng 3 năm 1968.
Cuối năm 1969, nhờ người bạn chiến đấu Phan Trung Kiên, ông thoát chết trong một trận càn quét ở Cà Mau – Kiên Giang.[13] Nguyễn Tấn Dũng, lúc đó đang là cấp bậc trung úy, đã chọn ở lại phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Tấn Dũng là trung uý, chính trị viên Đại đội Quân y thuộc Tỉnh đội Rạch Giá.[7]
Sau năm 1975, ông lần lượt giữ các chức vụ Thượng úy, Chính trị viên trưởng Tiểu đoàn Bộ binh 207; Đại úy, Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn Bộ binh 152; Thiếu tá, Trưởng ban cán bộ Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Kiên Giang.
Từ tháng 10 năm 1981 trở đi, ông phục viên và tham gia công tác chính trị, sinh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam tại địa phương, lần lượt giữ các chức vụ: Tỉnh ủy viên Kiên Giang, Phó Ban Tổ chức cán bộ Tỉnh ủy; Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Kiên Giang, Bí thư Huyện ủy Hà Tiên; Phó Bí thư Thường trực rồi Bí thư Tỉnh ủy; Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Bí thư Đảng ủy quân sự tỉnh Kiên Giang; Ủy viên Đảng ủy Quân khu 9; Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang.
Từ tháng 1 năm 1995, ông tham gia công tác trong trung ương với các chức vụ: Thứ trưởng Bộ Nội vụ; (tháng 1 năm 1995 - tháng 8 năm 1996), Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương. Được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng tại các kỳ Đại hội Đảng CSVN thứ VI (năm 1986, dự khuyết) và thứ VII (năm 1991).
Năm 1991 đến năm 1994: học Cử nhân Luật hệ tại chức.[12]
Ngày 1 tháng 7 năm 1996, ông được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương và được Bộ Chính trị phân công làm Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII và là Trưởng ban Kinh tế Trung ương, Phụ trách vấn đề tài chính của Đảng CSVN (từ tháng 6 năm 1996 đến tháng 8 năm 1997).
Từ tháng 9 năm 1997, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá X (đại biểu khu vực 3 Hải Phòng) và được đề cử và sau đó được Quốc hội thông qua giữ chức Phó Thủ tướng; sau đó Thủ tướng Phan Văn Khải cử giữ chức vụ Phó Thủ tướng Thường trực và Chủ tịch Hội đồng Tài chính - Tiền tệ của Chính phủ, trong thời gian này ông được nhà nước Lào tặng thưởng Huân Chương ISALA hạng nhất (huân chương cao quý nhất của Lào).
Tháng 5 năm 1998, Quốc hội thông qua cử ông kiêm chức Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Chức vụ này ông giữ đến ngày 11 tháng 12 năm 1999 thì bàn giao lại cho ông Lê Đức Thúy.[14]
Tháng 8 năm 2002, ông tiếp tục được đề cử giữ chức vụ Phó Thủ tướng và được Quốc hội khoá XI thông qua.